Phụ nữ thời xưa.
Lịch sử Việt Nam luôn ghi nhận phụ nữ là nguồn hạnh phúc, chăm sóc
chồng con, đỡ đần cha già mẹ yếu. Là chỗ dựa cho gia đình trong nhiều
phương diện cuộc sống.
Có vai trò người yêu, người vợ, người mẹ, người phụ nữ luôn được yêu
thương và chiếm vị trí quan trọng trong mọi tầng lớp người Việt. Đó là: Quốc Mẫu Âu Cơ, theo truyền thuyết, khoảng gần 5000 năm trước đã kết duyên cùng vua Lạc Long dòng dõi rồng, sinh được 100 người con trai; Trưng Vương (40-43), tuy triều đại chỉ tồn tại 3 năm song đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của người phụ nữ trong thời kỳ đầu giữ nước; Triệu Thị Trinh (225-248) cùng anh Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa năm 248 chống quân Đông Ngô cai trị tàn ác; Thái Hậu Dương Vân Nga (942-1000) là người đàn bà quyền lực của 2 triều đại nhà Đinh và nhà Tiền Lê, bà được biết đến với vai trò là vợ của 2 vua; Nguyên phi Ỷ Lan (tên thật là Lê Thị Ỷ Lan) triều Lý, bà xuất thân từ gia đình nông dân nhưng sau trở thành Hoàng thái hậu; Công chúa Huyền Trân (cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14) là con gái vua Trần Nhân Tông, bà được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) để đổi lấy hai châu Ô và Lý cho nước Đại Việt; Công chúa An Tư (thời vua Trần Nhân Tông) là con gái út vua Trần Thánh Tông, bà bị gả cho Thoát Hoan nhằm trì hoãn sức giặc, nuôi chí lớn chờ thời cơ đánh giặc; Công chúa Ngọc Hân (1770-1799) là con vua Lê Hiển Tông, bà có tài văn học nên được Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ phong làm Bắc cung Hoàng Hậu; Công chúa Ngọc Vạn (thế kỷ 17) giữ những chức vụ quan trọng trong triều Chân Lạp, bà đã có công mở đường cho người Việt trong cuộc Nam tiến mở rộng giang sơn; Bùi Thị Xuân (?-1802) là tướng tài giỏi của nhà Tây Sơn, vợ của danh tướng Trần Quang Diệu... Phụ nữ là những nhà văn, nhà thơ có danh phận. Được nhiều đời truyền tụng như Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1746) người tỉnh Bắc Ninh, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ rất giỏi thơ văn; Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1780-1820) có tài thơ văn cả về chữ Nôm và chữ Hán; Bà Huyện Thanh Quan (Đầu thế kỷ 19) tên thật là Nguyễn Thị Hinh, bà được mời làm Cung Trung giáo tập, dạy cung phi và công chúa trong cung; Thái Hậu Từ Dũ (1810-1902) người tỉnh Gia Định, hiệu Từ Dũ Bát Huệ Thái hoàng Thái hậu, là quí phi của vua Thiệu Trị, sinh ra vua Tự Đức nên trở thành Tháí Hậu; Tú Xương (cuối thế kỷ 19) người tỉnh Hải Dương, là hiền thê nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương...
Ngoài ra, không ít bộ phận phụ nữ tuy chỉ là dân thường lam lũ với
những số phận, tâm tư eo hẹp, nhưng cũng được trân trọng lưu dấu lại
hình ảnh và ghi chép, kể cả vào những thời Nho giáo độc tôn nhất.
Phụ nữ Việt Nam thời xưa.
Hình ảnh phụ nữ thông qua văn thơ, ca dao, tục ngữ truyền tụng trong dân gian: "Thân cò lặn lội bờ ao - Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non".
Phần nào minh chứng người phụ nữ xưa thường bị gạt ra lề cuộc sống
thiết yếu nhưng chặt đầy tính gia phong cổ hủ. Bị dồn nén vào khuôn khổ
chật hẹp của đời sống gia đình: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con trai).
Sau khi lấy chồng, người con gái phải học hành nhiều thứ, nhưng học
không phải để thi cử, tiến thân mà học để chuẩn bị cho cuộc sống bên nhà
chồng. Còn có quan niệm, việc hôn nhân
của người phụ nữ là do số phận sắp đặt sẵn cho mỗi người trong số họ,
may mắn thì gặp được người chồng tử tế, giỏi giang, nếu lỡ lấy phải
người chồng vũ phu hay nghèo khó thì cũng phải gắng chịu. Người phụ nữ
làm dâu có trách nhiệm và biết quán xuyến mọi việc gia đình, đã sinh ra
những ý chí và nghị lực can trường trong họ, những thực tế cuộc sống vẫn
đẩy họ đến cảnh cam chịu, gần như suốt cả cuộc đời phải gánh chịu những
hậu quả không ra gì về cả thể xác lẫn tinh thần. Với quan niệm "tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng",
những người phụ nữ là nạn nhân của chế độ đa thê (bất kể là vợ cả hay
vợ lẽ) luôn chìm đắm trong những mối mâu thuẫn, bất hòa, khổ đau. Nhiều
khi chỉ vì những chuyện rất vụn vặt. Cả khi người chồng chết, người phụ
nữ cũng mất hết quyền thừa kế tài sản và phải phục tòng người con trai.
Phần lớn phụ nữ Việt Nam thời xưa không được coi trọng, không có được
địa vị xứng đáng trong gia đình, xã hội. Họ phải gánh chịu nhiều sự áp
đặt, bất công, tư tưởng trọng nam khinh nữ (Nam trọng nữ khinh, nam
ngoại nữ nội). Người phụ nữ rất khó có cơ hội để được phát triển ngang
tầm với sự phất triển của xã hội. Không gì hơn chỉ như hình bóng sau
lưng của người chồng trong các gia đình. Nhưng vẫn được xem là tác nhân
trong sự thành công của người chồng.
[sửa] Phụ nữ thời chiến tranh
Tuy nhiên, tính đề cao đối với người phụ nữ Việt Nam từ xưa vẫn là
tinh thần làm việc và đấu tranh có lịch sử hàng nghìn năm. Phụ nữ Việt
Nam cống hiến rất nhiều và mọi mặt cho nền độc lập, thống nhất của đất
nước. Từ các cuộc chiến tranh đó đã sản sinh ra những nữ anh hùng dân tộc, để lại danh tiếng cho các đời sau họ, như Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Hoàng Ngân, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Thị Lét, Tạ Thị Kiều, Kan Lịch, Lê Thị Hồng Gấm, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình, Nhất Chi Mai, Nguyễn Thị Út (Út Tịch)... Sự mở đầu trang sử là cuộc chiến chống quân xâm lăng của Hai Bà Trưng, cùng lời thề xuất quân: "Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này". Vài thế kỷ sau, người thiếu nữ Triệu Thị Trinh đã tự khẳng định mình là một nhi nữ hào kiệt: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông..."[1]
Trong các cuộc chiến tranh hiện đại sau này đã xuất hiện nhiều phụ nữ
tiêu biểu trong khó khăn gian khổ. Họ là những con người gan dạ không
quản ngày đêm và bom đạn, vừa lao động sản xuất, vừa sẵn sàng cho chiến
tranh. Tinh thần của họ là "Ruộng rẫy như chiến trường, cuốc cày như vũ khí",
gồm có hàng vạn nữ nông dân và công nhân "tay cày, tay súng", "tay búa,
tay súng" làm nên một hậu phương vững chắc, trên ruộng đồng, công
trường, nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ...
Người phụ nữ bước ra từ các cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc,
được nhân dân và nhà nước Việt Nam tôn vinh là những nữ anh hùng và
những bà mẹ Việt Nam anh hùng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng 8 chữ vàng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".
[sửa] Phụ nữ thời nay
Ngày nay tuy chưa phải đã hết những định kiến, nghi ngại, thậm chí là
kỳ thị, nhưng xét toàn diện, thì người quan sát trong và ngoài Việt Nam
đều có sự thống nhất nhận xét về phụ nữ Việt Nam, cả về số lượng và
chất lượng đóng góp đã gìn giữ và phát huy được vai trò đối với thực
tiễn phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực thiết yếu.
Từ phải đảm đương vai trò "đối nội" trong khuôn khổ gia đình, phụ nữ
ngày nay còn tài cán với các trọng trách "đối ngoại". Là một sự nghiệp
không còn chỉ giành cho nam giới.
Họ phải khẳng định giá trị, khả năng bằng sự nghiệp và tính vươn lên
của bản thân. Khát vọng với sự nghiệp không đơn giản chỉ như thoát khỏi
vòng cương tỏa từ khuôn khổ gia đình. Hơn thế nữa họ khẳng định vị thế
như là những người đứng đầu tập đoàn, công ty doanh nghiệp, thậm chí là
những lãnh đạo trong các tổ chức của chính phủ.
Những thành tích của họ được xã hội ghi nhận và đánh giá cao trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và giáo dục.
Không ít nữ học sinh, sinh viên đạt giải cao trong các kỳ thi cấp quốc
gia và quốc tế. Tầng lớp nữ trí thức có những công trình khoa học giá
trị, mang lại hiệu quả kinh tế cao: Số nữ Giáo sư chiếm tỷ lệ 3,5%; Phó
giáo sư 5,9%; Tiến sỹ 12,6%; Tiến sỹ khoa học 5,1%; 19 nữ Anh hùng lao động, và nhiều Giải thưởng Kovalépscaia, NSND, NSƯT. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội tăng qua các thời kỳ bầu cử (khóa I (1946- 1960) là 3%, đến khóa XII (2007 – 2012) tăng lên là 25,76%). Ngành Giáo dục và Đào tạo từng có nữ bộ trưởng, và đương nhiệm thứ trưởng, và nhiều phụ nữ làm cán bộ quản lý các cấp Vụ, Viện, Sở, Phòng, Ban, các trường và các đơn vị giáo dục: Có 11 nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, 1.011 nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú... [2]
Người phụ nữ Việt Nam tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau và có ảnh
hưởng không nhỏ đối với giá trị và lợi ích của toàn xã hội. Được thể
hiện thông qua các môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá, nghệ thuật...
Song , xét cho cùng thì cái gì cũng có hai mặt của nó, tuy có rất
nhiều phụ nữ khẳng định được vị thế của mình trong xã hội thời nay nhưng
không ít phụ nữ đòi quyền bình đẳng với nam giới bằng cách như bia bọt
rượu chè, tình dục bừa bãi...... và rất nhiều cái xấu khác nữa.Đó là một
vấn đề mà chính phụ nữ Việt Nam chúng ta phai khắc phục, để cho xứng
đáng là phụ nữ Việt Nam
[sửa] Văn hóa truyền thống
Mặc dù bị ảnh hưởng không ít từ các nền văn hóa ngoại quốc trong suốt
hàng nghìn năm bị đô hộ, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ gìn được nét đẹp vốn
rất riêng cho họ khi hiếm quốc gia nào có được. Xã hội càng ngày phát
triển, con người càng văn minh nhưng những đức tính truyền thống của
người phụ nữ từ nông thôn đến thành thị vẫn nguyên giá trị, đó chính là những vẻ đẹp trong gia đình, xã hội; vẻ đẹp người làm vợ, làm mẹ; vẻ đẹp nữ doanh nhân, ca sĩ, thi sĩ, diễn viên, hoa hậu, tri thức; vẻ đẹp ý nhị, lịch sự...
Những nét đẹp hiện đại kết hợp nhuần nhuyễn với những đức tính truyền
thống tạo nên dáng vẻ và tính cách mang ý nghĩa với bản chất thuần
Việt, tiêu biểu cho các tầng lớp phụ nữ Á Đông.
Tuy không thể đua với nam giới về sức vóc, tài trí, hay việc tranh
đoạt trong thiên hạ nhưng vẫn nhiều công việc gia đình và xã hội cần đến
người phụ nữ. Lịch sử Việt nam đã từng ghi nhận những hình ảnh thường
ngày về người phụ nữ cổ truyền. "Sớm ra ruộng lúa, tối về nương dâu",
người phụ nữ ngày xưa tầm tơ canh cửi là chủ nhân của những bánh xe
quay sợi bằng đất nung từ thời Lý. Họ lập được những kỷ lục về trồng dâu
nuôi tằm với một năm tám lứa. Tơ lụa, sa the, lĩnh, láng mà nước ngoài chuộng mua phần lớn đều sản xuất ra từ những bàn tay khéo léo của họ. Hình ảnh người phụ nữ "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời",
tần tảo làm lụng rất phổ biến ở các vùng làng quê Việt Nam là lực lượng
lao động chính trong các mùa vụ sản xuất lương thực. Công việc của họ
là làm đồng, làm gốm, chèo truyền, bán hàng, bật bông kéo sợi, dệt vải, may vá quần áo, ngoài ra họ còn là những nghệ sỹ sáng tác và hát dân ca, múa dân tộc...
[sửa] Tứ đức
Trở lại với sự khâm phục và ngưỡng mộ của toàn xã hội, người phụ nữ
Việt Nam không bỏ quên những đức tính tốt đẹp sinh thành từ một dân tộc
có cội nguồn Mẹ Âu Cơ. Đó là Tứ đức, được ví như "khuôn vàng thước ngọc". Theo quan niệm từ thuyết Khổng Tử thì Tứ đức của phụ nữ là "Công, Dung, Ngôn, Hạnh":
- Công: là nữ công gia chánh, đề cao sự khéo léo và chu đáo của người phụ nữ đối với các công việc nội trợ trong gia đình.
- Dung: là dung nhan, đề cao cái đẹp tâm hồn và hình thức bên ngoài (biểu hiện sự tươi tắn, không ủ dột trên nét mặt, chăm chút cho mái tóc, hàm răng và trang phục).
- Ngôn: là lời nói, nhưng không bao giờ chỉ đơn thuần là lời nói, đề cao cả trí tuệ và tâm hồn người nói (biết cân nhắc lời ăn tiếng nói, không quá lời lúc nóng giận, không ba hoa khi hứng chí, giả dối khi giao tiếp).
- Hạnh: là hạnh kiểm, đức hạnh (mực thước, nghiêm trang trong dáng đứng, bước đi; thủy chung, yêu chồng, thương con; giàu lòng nhân ái, hy sinh vì người khác).
Người phụ nữ ngày nay, ngoài trách nhiệm "tề gia nội trợ", khi ra làm
việc ngoài xã hội họ còn là những công dân của xã hội đó. Biết sống có
trách nhiệm với cộng đồng, có hoài bão và nỗ lực trong công việc, đã thể
hiện phẩm chất đạo đức của chữ Công và chữ Hạnh. Tuy nhiên, trong mỗi
giai đoạn lịch sử, thước đo từ xã hội về chuẩn mực đạo đức
cũng có sự đổi khác. Xét Tứ đức người phụ nữ cần có sự hiểu biết nhất
định về hoàn cảnh lịch sử của các giai đoạn đó để có ứng xử phù hợp. Sự
kế thừa và phát triển thêm những giá trị đạo đức ở người phụ nữ trong
cuộc sống ngày nay để phù hợp với thời đại, cũng là vấn đề mà xã hội
đang quan tâm.
[sửa] Tín ngưỡng
[sửa] Thờ cha mẹ
Theo phong tục, tập quán và tín ngưỡng của người Việt Nam, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
thường có sự so sánh, phân biệt giữa nam giới với phụ nữ. Ngoài việc
người đàn ông có trách nhiệm thờ cúng cha mẹ, tổ tiên thì người phụ nữ
lấy chồng phải hoàn toàn theo chồng. Phải có trách nhiệm thờ phụng tổ
tiên bên nhà chồng, họ không được thờ phụng cha mẹ đẻ tại nhà mình kể cả
khi không có anh em trai, khi đó phải nhờ một người đàn ông khác, có
thể là em hoặc cháu trong họ nội thờ cúng hộ. Tập tục này thường vô tình
tạo ra tiêu cực trong đời sống văn hoá người phụ nữ. Muốn có được người
thừa tự, nhiều gia đình chỉ có con gái đã nhận thêm con nuôi là trai.
Người chồng cho vợ đi "xin" hoặc người vợ cho chồng đi "ở" với người phụ
nữ khác để có con trai. Họ có tâm niệm "bế con chồng hơn bồng cháu
ngoại" và không băn khoăn nhiều đến việc để lại hậu duệ, miễn là phải có
người "hương khói" về sau.
[sửa] Lễ chùa, đình và đền
Phật giáo (Tiểu thừa) được du nhập trực tiếp từ Ấn Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế kỉ 2 sau Công nguyên. Phật giáo Việt Nam không hẳn xuất thế mà thường nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thoát tục [3].
Người phụ nữ đi chùa lễ Phật để cầu an, cầu sự may mắn cho bản thân và
người thân trong gia đình. Bản chất phụ nữ yếu đuối (chân yếu, tay mềm),
tâm nguyện họ luôn cần có sự che chở, giải thoát những nỗi khổ đau phát
sinh từ cuộc sống. Ngoài nhờ cậy từ các yếu tố con người và xã hội giải
quyết giúp đỡ thì họ thường tìm đến để cầu nguyện dưới các tượng Phật,
các Thần và Tiên ở Chùa, Đền,
miếu, phủ... Điều khác biệt trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam là từ
các pho tượng như tượng Bà Man Nương, tượng Bà Trắng, Bà Đỏ đến tượng Kim đồng - Ngọc Nữ... đều mang dáng dấp và vẻ đẹp người phụ nữ, bên trong đó quy tụ nhiều nét nghệ thuật thế tục.
Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (còn gọi là các Thánh Mẫu),
các Thánh Mẫu có sự gắn bó với cuộc sống trần tục, gần gũi với dân
gian. Tín ngưỡng này có từ lâu đời, hiện thân của nó là các hiện tượng
tự nhiên mây, mưa, sấm, chớp.
Khi trách nhiệm người đàn ông là công việc săn bắn, giữ đất, giữ làng
thì công việc nông nghiệp do người phụ nữ hoàn toàn đảm nhiệm. Từ hình
ảnh người phụ nữ cụ thể được dân gian nhân hoá thành một bà Mẫu cao cả
tâm linh và quyền năng. Qua đó, Mẫu còn được hiểu như là đất, nước, cây lúa,
là mọi thứ làm ra sự sống cho con người. Thờ các Thánh Mẫu được xem như
một chỗ dựa tinh thần của người phụ nữ, thường mang đậm màu sắc tín
ngưỡng của các vùng thuần nông nghiệp. Các đền đài, miếu, phủ thờ tập
trung chủ yếu ở các vùng đồng bằng và trung du như Phủ Giầy (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Đền Suối Mỡ (Bắc Giang), Chùa Bà Đức Sanh (Bình Thuận)...
[sửa] Cưới hỏi
Trước đây người Việt gọi là lễ rước dâu, ngày nay trong ngôn từ của đời sống thường ngày được gọi là lễ cưới.
Theo nghi thức truyền thống thì người phụ nữ được hưởng những quyền lợi
đầu tiên khi bước chân đến nhà chồng, đồng thời xem đó như sự ràng buộc
và tính pháp lý
để người chồng phải có trách nhiệm với người vợ trong cuộc sống tiếp
theo của hai người. Nghi lễ cưới hỏi thường tuân theo các trình tự như
sau:
Trang phục truyền thống trong đám cưới của
người Việt
- Chạm ngõ: là nghi thức gặp gỡ hai bên gia đình để biết nhau một cách công khai, chính thức;
- Lễ ăn hỏi: nhà trai mang lễ vật sang nhà gái hỏi vợ, được đựng trong các tráp phủ vải điều màu đỏ gồm trầu, cau, rượu, chè, bánh cốm, bánh xu xê, mứt sen, xôi, thủ lợn, lợn sữa quay.
- Lễ đính hôn: hay lễ cầu hôn, đối với phong tục phương Tây là lễ trao nhẫn đính hôn.
- Lễ vấn danh: xem tuổi xung, hợp theo tín ngưỡng của đôi trai gái để chọn ngày giờ tốt cho các nghi thức trong lễ.
- Lễ nạp tài: nhà trai mang sính lễ sang nhà gái, là trầu cau, gạo
nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Nhà gái sẽ sử dụng
một phần vào lễ ăn hỏi và một phần vào trong lễ cưới.
- Lễ xin dâu: vào trước giờ đón dâu, mẹ chú rể hoặc một hai bà cô, bà dì sang nhà gái xin đón dâu.
- Đón dâu: đoàn nhà trai sang nhà gái đón dâu về.
- Lễ vu quy: tổ chức tại nhà gái để tiễn cô dâu đi lấy chồng.
- Lễ thành hôn: được tổ chức chính thức bên nhà trai.
- Lễ tơ hồng: lễ khấn ông Tơ bà Nguyệt và cao đường (cha mẹ), diễn ra tại nhà trai, chỉ gồm những người thân thích.
- Lễ hợp cẩn: là buổi lễ kết thúc đám cưới, trước giường có bàn bày
rượu và một đĩa bánh phu thê (xu xê). Một cụ già đứng lên rót rượu vào
chén đưa đôi vợ chồng cùng uống cạn chén, cùng ăn hết cái bánh. Sau đó
mọi người ra ngoài hết trừ lại hai vợ chồng mới cưới.
- Lễ báo hỉ: là tiệc mặn hoặc ngọt tổ chức sau nghi lễ cưới chính thức tại quê quán của cô dâu hoặc chú rể.
- Lễ lại mặt: do chú rể mang về nhà gái một món đồ lễ tạ sau ngày cưới như một lời cảm ơn bên thông gia.
- Lễ cheo: lễ vật hoặc kinh phí nộp cho làng, xóm khi có người con trai mới lấy vợ, với dụng ý để xóm làng tiếp nhận thêm thành viên mới.
- Tuần trăng mật: là thời điểm nghỉ ngơi cho cặp vợ chồng trẻ sau những ngày căng thẳng khi tiến hành hôn lễ.
[sửa] Tình mẫu tử
Người phụ nữ mang nặng đẻ đau, là người chắp đôi cánh uớc mơ, là
nguồn ánh sáng dẫn đường cho người con để bay đến chân trời hi vọng. Với
người phụ nữ, con cái luôn là máu thịt, là điều đáng quý nhất trong
cuộc đời họ. Tình mẫu tử thiêng liêng cũng chính là cội nguồn của mọi
tình cảm.
Ngày nay, công việc chăm sóc con nhỏ không còn vất vả như xưa, tuy
nhiên, người làm mẹ vẫn còn phải có trách nhiệm nặng nề trên đôi vai là
hướng con cái mình đến tương lai một cuộc sống hoàn thiện cả về thể chất
và tinh thần. Tình mẫu tử thiêng liêng thổi vào tâm thức người phụ nữ
trong xã hội đang phát triển và hội nhập một sức sống mới mẻ, để dần có
sự bứt phá về quan điểm, cách nuôi dạy con cái. Những gia đình có điều
kiện kinh tế luôn có xu hướng cho con cái họ theo học trường nổi tiếng
trong ngoài nước. Các gia đình vùng nông thôn, miền núi, kể cả những nơi
đang phải đối mặt với nghèo khó cũng thấy được tính quan trọng việc học
hành đối với tương lai con cái. Ngay cả khi lớn lên, người mẹ vẫn sát
cánh cùng con cái trên con đường đời đầy gian lao và thử thách. Họ là
những mẫu người "giản dị mà sâu sắc, kín đáo mà không tĩnh lặng", được thể hiện trong các câu hát, câu thơ sâu lắng. Có câu hát : "Tình mẹ bao la như biễn Thái Bình dạt dào...", tình yêu thương của người phụ nữ làm mẹ được so sánh như biển Thái Bình rộng lớn.
Đại văn hào Nga Macxim Gorki đã viết: "Đời thiếu mẹ hiền, không phụ nữ/ Anh hùng, thi sĩ, hỏi còn đâu?".
Người Việt có một ngày lễ mà giới tăng ni Phật tử thường gọi là ngày lễ Vu Lan vào ngày rằm tháng bảy (15-7) âm lịch. Đây là một đại lễ báo hiếu, là cơ hội quý báu để những người con hiếu thảo báo đáp công sinh thành của cha mẹ mình.
[sửa] Hạn chế trong văn hóa ứng xử
[sửa] Bạo lực vợ chồng
Nguyên nhân dẫn đến bạo lực vợ chồng trong gia đình chủ yếu do sự
hiểu biết về bình đẳng giới và luật pháp còn hạn chế. Cũng không loại
trừ việc chính người phụ nữ nhiều khi lại tạo ra "môi trường" để một số
người chồng phát huy tính vũ phu của họ. Nghiên cứu của Tổng cục Thống
kê và UNICEF
về Đánh giá các mục tiêu Trẻ em và phụ nữ Việt Nam trong năm 2006, cho
thấy có đến 64% phụ nữ độ tuổi từ 15-49 chấp nhận hành vi bạo lực của
người chồng vì một trong 5 lý do sau: Người vợ đi chơi không nói cho
chồng biết. Người vợ bỏ bê con cái. Người vợ cãi lại chồng. Người vợ từ
chối quan hệ tình dục với chồng. Và người vợ nấu thức ăn bị cháy. Thông
qua nhận định này, cứ 3 phụ nữ được hỏi thì có 2 người đồng ý với việc
người chồng có quyền người đánh vợ khi người vợ phạm một trong 5 khuyết
điểm nói trên [4].
Bạo lực vợ chồng xảy ra nhiều hay ít, thường xuyên hay không cũng phụ
thuộc phần nhiều vào khu vực nơi cư trú. Công việc phổ cập văn hoá và
đời sống gia đình tới vùng nông thôn vẫn đang còn hạn chế hơn những nơi
đô thị, không những vậy, khi người phụ nữ có trình độ học vấn thấp thì
cũng dễ chấp nhận việc bị người chồng đối xử bất công.
[sửa] Hoạt động xã hội
[sửa] Tổ chức
-
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được thành lập ngày 20 tháng 10 năm 1930. Là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên Liên đoàn phụ nữ dân chủ Quốc tế, thành viên Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á).
Hệ thống tổ chức gồm 4 cấp:
- Cấp trung ương
- Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi là cấp tỉnh)
- Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương (gọi là cấp huyện)
- Cấp xã, phường, thị trấn và tương đương (gọi là cấp xã)
Những tên gọi trong lịch sử: Hội Phụ nữ Giải phóng (1930 – 1935), Hội Phụ nữ Dân chủ (1936 – 1938); Hội Phụ nữ Phản đế (1939 – 1941); Đoàn Phụ nữ Cứu quốc (1941 – 1945)[5].
Các ngày kỷ niệm: Ngày 20 tháng 10 và Ngày 8 tháng 3 hàng năm.
Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam
là cơ quan trực thuộc Chính phủ phối hợp hoạt động của Chính phủ giải
quyết những vấn đề liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ.
Việt Nam đã ký Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) của Liên Hiệp Quốc.
[sửa] Văn hoá nghệ thuật
Tính hoạt động nghệ thuật ở người phụ nữ Việt Nam có sự lồng ghép
giữa các giai đoạn lịch sử, giữa dân tộc và thế giới mở hiện đại. Nghệ
thuật có nguồn gốc từ nền văn hoá đa sắc tộc, phục vụ nhu cầu tinh thần
cho chính dân tộc họ. Nghệ thuật thăng trầm cùng lịch sử vốn có nhiều
giai đoạn chiến tranh và hoà bình. Người phụ nữ ở vào những hoàn cảnh xã
hội nhất định đã đem đến những hiệu quả tinh thần, thông qua những hoạt
động lao động nghệ thuật, bao gồm: Thể thao, Điện ảnh, ca múa nhạc, thời trang, điêu khắc, hội hoạ, ẩm thực, tiêu dùng, đối nhân xử thế...
[sửa] Điện ảnh và sân khấu
Người Phụ nữ Việt Nam nổi bật trong các tác phẩm điện ảnh, được thể hiện đặc sắc theo suốt 3 thời kỳ:
Thời kỳ 1959 - 1975, tuy điện ảnh Việt Nam ra đời trong chiến tranh nhưng đã phát triển được nhiều tác phẩm nổi tiếng như "Chung một dòng sông", "Vợ chồng A Phủ", "Con chim vành khuyên", "Đường về quê mẹ", "Nổi gió"... Và là thời kỳ đầu của cả phim truyện, phim tài liệu và phim hoạt hình của Việt Nam, với nhiều tác phẩm giành giải thưởng tại liên hoan phim quốc tế [6].
Thời kỳ 1976 - 1986,
có nhiều biến động về kinh tế, xã hội, xuất hiện những mâu thuẫn vì tồn
đọng cái cũ trong cái mới. Những tác phẩm điện ảnh ra đời nhưng đã có
sự biến đổi mạnh mẽ về phong cách tiếp cận và khai thác đề tài về người
phụ nữ. Được thể hiện khá rõ nét qua những bộ phim "Mùa gió chướng", "Chom và Sa", "Hòn đất", "Đứng trước biển", "Chuyến xe bão táp"...
Thời kỳ từ 1987
đến nay là thời kỳ xóa bỏ bao cấp và hội nhập quốc tế, điện ảnh đã và
đang phản ánh thực tế cuộc sống người phụ nữ Việt Nam trong xã hội hiện
tại. Một phần quay về với những số phận con người trong và sau chiến
tranh như "Anh chỉ có mình em", "Bông hoa rừng Sác", "Hà Nội 12 ngày đêm"...
Phần khác là những người đàn bà trăn trở, vật lộn với cuộc sống mưu
sinh trong phim "Giải hạn", "Hải Nguyệt"; sự sao nhãng cuộc sống bản
thân, gia đình và xã hội để lao vào một kiếp đời phù du của những cô gái
nhảy đáng thương trong phim "Gái nhảy"; là nhân vật Dần, một điển hình
cho người phụ nữ chịu thương, chịu khó, đức hạnh và dịu dàng trong phim "Áo lụa Hà Đông"...
Bên cạnh ngành điện ảnh, phụ nữ Việt Nam còn là lực lượng diễn viên chủ lực trên các sàn diễn kịch trường, hát dân ca, hát chèo, hát bội (hát tuồng) và hát cải lương.